Các ngưỡng can thiệp đối với bệnh loãng xương dựa trên xác suất gãy xương mang lại hiệu quả về chi phí - một kích thước không phù hợp với tất cả các quốc gia
04/05/2021
Số lượng người có nguy cơ bị gãy xương do loãng xương trên toàn thế giới được dự đoán sẽ tăng gấp hai lần từ 158 triệu người vào năm 2010, lên 319 triệu người vào năm 2040. Dự đoán về xu hướng này sẽ được cảm nhận rõ ràng nhất ở châu Á; nơi sinh sống của 4,5 tỷ người và một số xã hội đang già đi nhanh chóng.
Số lượng người có nguy cơ bị gãy xương do loãng xương trên toàn thế giới được dự đoán sẽ tăng gấp hai lần từ 158 triệu người vào năm 2010, lên 319 triệu người vào năm 2040. Dự đoán về xu hướng này sẽ được cảm nhận rõ ràng nhất ở châu Á; nơi sinh sống của 4,5 tỷ người và một số xã hội đang già đi nhanh chóng.
Gánh nặng tài chính cho điều trị loãng xương và gãy xương do loãng xương là rất lớn. Tuy nhiên, làm thế nào để có thể phân bổ hiệu quả các nguồn lực chăm sóc sức khỏe hiện còn hạn chế cho bệnh loãng xương? Ai là người quyết định việc phân bổ này và điều gì nên làm cơ sở cho việc phân bổ này? Làm thế nào để chúng ta xác định được các ngưỡng hiệu quả về chi phí cho điều trị loãng xương và ngưỡng can thiệp thống nhất có thể được sử dụng cho toàn bộ khu vực Châu Á Thái Bình Dương? Câu trả lời cho câu hỏi thứ hai rõ ràng là một Không. Các ngưỡng can thiệp trong bệnh loãng xương sẽ khác nhau, vì chúng phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố cụ thể của từng quốc gia như các vấn đề về bồi hoàn và chi phí, mức độ sẵn sàng chi trả cho dịch vụ chăm sóc sức khỏe, tiếp cận với thuốc và kiểm tra mật độ khoáng xương. Sự không đồng nhất đáng kể về đặc điểm dịch tễ học, dân tộc học, kinh tế và khả năng tiếp cận các nguồn lực tồn tại giữa các quốc gia tạo nên khu vực Châu Á Thái Bình Dương rộng lớn. Do đó, rõ ràng là các ngưỡng can thiệp phải cụ thể theo từng quốc gia. Đồng thời, các ngưỡng can thiệp này không chỉ phải phù hợp về mặt lâm sàng mà còn phải hiệu quả về mặt chi phí tại quốc gia mà nó đang được thực hiện. Không thể và không nên giả định rằng các ngưỡng can thiệp có hiệu quả về chi phí ở một quốc gia sẽ tương đương với hiệu quả về chi phí ở một quốc gia khác.
Phân tích kinh tế sức khỏe ngày càng đóng vai trò quan trọng để cung cấp thông tin về giá trị tương đối của các liệu pháp điều trị loãng xương và giúp xác định cách tốt nhất để phân bổ thông minh các nguồn lực chăm sóc sức khỏe hữu hạn. Việc phát triển các ngưỡng can thiệp và đánh giá dựa trên nguy cơ gãy xương tuyệt đối đã dẫn đến việc thăm dò hiệu quả chi phí của các can thiệp theo đường xác suất gãy xương với các ngưỡng can thiệp cố định hoặc phụ thuộc vào tuổi được các nhà điều tra khác nhau đánh giá.
Ngưỡng can thiệp gãy xương hông cố định dựa trên FRAX® là 3% và ngưỡng can thiệp gãy xương do nguyên nhân chính loãng xương là 20% được coi là hiệu quả về chi phí từ một phân tích kinh tế sức khỏe được thực hiện cách đây hơn một thập kỷ tại Hoa Kỳ. Những ngưỡng cụ thể này bằng cách nào đó đã tìm được cách để được chấp nhận mà không cần bàn cãi ở một số nơi khác trên thế giới. Các ngưỡng phụ thuộc vào độ tuổi đã được phát hiện là có hiệu quả về chi phí ở Anh và Viện Y tế và Chất lượng Điều trị Quốc gia của Anh (NICE) đã cập nhật Đánh giá bằng nhiều Công nghệ (Multiple Technology Appraisal-MTA) về việc sử dụng bisphosphonate trong điều trị bệnh loãng xương đã kết luận rằng bisphosphonate đường uống thông thường là tiết kiệm chi phí cho những người có nguy cơ gãy xương do loãng xương thậm chí là 1%. Ngược lại, một nghiên cứu gần đây từ Singapore sử dụng mô hình kinh tế đã được kiểm chứng trước đây phù hợp với bối cảnh của Singapore cho thấy việc điều trị phụ nữ sau mãn kinh bằng alendronate chung chỉ tiết kiệm chi phí ở độ tuổi lớn hơn nhiều so với những gì đã được ghi nhận ở Anh. Các ngưỡng cố định được xác định là có hiệu quả về chi phí cũng khác với các ngưỡng được lưu ý ở các quốc gia khác. Ngoài nghiên cứu được thực hiện ở Singapore, các nghiên cứu đánh giá kinh tế sức khỏe về bệnh loãng xương rất ít ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Những nghiên cứu được thực hiện thì lại sử dụng các mô hình chiến lược khác nhau. Các kết quả thu được từ các nghiên cứu nhấn mạnh sự khác biệt quan trọng về các yếu tố và quy trình thực hành kinh tế, dịch tễ học, thậm chí cả lâm sàng giữa các quốc gia trong khu vực rộng lớn là Châu Á - Thái Bình Dương. Chúng cũng chỉ ra một thực tế quan trọng là các loại ngưỡng can thiệp có thể được sử dụng ở một quốc gia châu Á không nhất thiết phải giống như những gì có thể được sử dụng ở một quốc gia ở phương Tây. Không phải chuẩn mực nào cũng dùng được cho tất cả khi nói đến ngưỡng điều trị loãng xương. Khung Tiêu chuẩn Chăm sóc Lâm sàng Tối thiểu do Hiệp hội Loãng xương Châu Á Thái Bình Dương (Asia Pacific Consortium on Osteoporosis-APCO) phát triển, nhấn mạnh sự cần thiết của các quốc gia trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương để phát triển các ngưỡng can thiệp hiệu quả, cụ thể cho từng quốc gia để quản lý loãng xương trong khi vẫn tuân thủ các tiêu chuẩn chăm sóc tối thiểu được ủng hộ trong Khung.
Dr Manju Chandran,Chuyên gia Tư vấn cấp cao, Giám đốc Đơn vị Chuyển hóa xương và Loãng xương Bệnh viện Đa khoa Singapore, Chủ tịch Hiệp hội Loãng xương châu Á- Thái Bình Dương (APCO) và Mickaël Hiligsman, Phó Giáo sư Kinh tế Y tế và Đánh giá Công nghệ Y tế tại Đại học Maastricht, Hà Lan