Đức Phật và loãng xương

16/07/2018

Không, tôi không nói Đức Phật bị loãng xương; tôi chỉ muốn nhân dịp Lễ Vu Lan báo hiếu để nói về kiến thức của Phật về xương, về người mẹ và căn bệnh âm thầm có tên là loãng xương. Loãng xương là vấn đề đáng quan tâm vì bệnh liên quan đến nhiều hệ quả.

Tác giả: Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn

Đức Phật lí giải về xương

Nhưng trước khi bàn về kiến thức về xương của Đức Phật, có lẽ tôi phải nói qua một chút về nội dung của Kinh Báo hiếu.  Trong một chuyến đi hoằng pháp của Đức Phật, Ngài và đoàn tuỳ tùng đi ngang qua một đống xương khô cao như núi.  Đức Phật quì xuống lạy đống xương. Vị tôn giả tên là A Nan ngạc nhiên hỏi sao Phật làm như thế, và Ngài giải thích rằng Ngài lạy ông, bà, cha, mẹ, hay nói chung là những bậc tiền nhân.  Đức Phật bèn bảo A Nan nên sắp xếp đống xương cho thứ tự, nam nữ để riêng ra, chứ hỗn độn như thế thì rất không phải.  Tôn giả A Nan hỏi làm sao biết xương nào là của nam giới, và xương nào là của nữ giới.  Đức Phật giải thích rằng việc phân biệt cũng không khó vì trọng lượng xương của nam cao hơn nữ.  Ngài còn suy luận rằng sở dĩ trọng lượng xương của nữ thấp hơn nam là vì người nữ phải sinh nặng đẻ đau, mất máu, và mất sữa cho con bú.  Nguyên văn những câu kinh liên quan là như sau:

 

Phật mới bảo: A Nan nên biết

Xương nữ nam phân biệt rõ ràng

Ðàn ông xương trắng nặng hoằng

Ðàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn.

Ngươi có biết cớ chi đen nhẹ?

Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra

Sanh con ba đấu huyết ra

Tám hộc, bốn đấu sữa hòa nuôi con.

Nên nhớ rằng những suy luận này (chẳng biết tôi dùng chữ “suy luận” có đúng không nữa) đã được phát biểu từ hơn 2500 năm trước.  Ở thời điểm đó thì chắc chắn không có thiết bị y khoa để đo lường xương mà so sánh nặng hay nhẹ.  Vậy chúng ta thử “kiểm định” xem những gì Đức Phật suy luận có đúng với thực tế hay không.

 

Mật độ xương

Ngày nay, với phương tiện vật lí (như máy hấp thu hai tia năng lượng -- dual energy X ray absorptiometry hay DXA), chúng ta có thể đo lường được lượng chất khoáng trong xương (bone mineral content).  Lượng này thường được tính bằng gram.  Nhưng để so sánh hai nhóm một cách khách quan, chúng ta cần phải tính lượng chất khoáng trên diện tích xương (hoặc thể tích xương).  Diện tích vùng xương được đo thường được mô tả bằng centimeter vuông (cm2).  Lấy lượng chất khoáng trong xương chia cho diện tích xương, chúng ta có chỉ số có tên là “bone mineral density” (mật độ chất khoáng trong xương, nhưng quen gọi tắt là mật độ xương) với đơn vị đo lường là gram/cm2.  Những xương quan trọng thường là xương cột sống và xương đùi, vì đây là những nơi xương hay bị gãy. 

Gần đây, chúng tôi đã đo mật độ xương trên 1200 nam và nữ ở Thành phố Hồ Chí Minh.  Kết quả cho thấy nữ có mật độ xương thấp hơn nam.  Nhưng sự khác biệt còn tuỳ thuộc vào độ tuổi.  Ở độ tuổi 20-30, tính trung bình, mật độ xương đùi ở nữ giới thấp hơn nam giới khoảng 5%.  Nhưng sau độ tuổi 60, mật độ xương ở nữ giới thấp hơn nam đến 17%.  So với độ tuổi 20-30, mật độ xương ở nữ tuổi 60 trở lên mất gần 40%.  Như vậy, bằng tuệ giác của mình, Đức Phật đã suy đoán đúng rằng nữ có trọng lượng xương thấp hơn nam.

loãng xương, gãy xương, xương chắc khỏe, thuốc loãng xương, mãn kinh, bổ sung canxi, bổ sung vitamin D, thiếu vitamin D

Vai trò của estrogen

Tại sao ở độ tuổi 60 trở lên nữ có mật độ xương thấp hơn nam?  Có nhiều nguyên nhân cho sự suy giảm mật độ xương ở nữ.  Một trong những lí giải được nhiều người chấp nhận nhất và có chứng cứ khoa học nhất là do suy giảm hormone giới tính estrogen. 

Estrogen là một hormone đóng vai trò rất quan trọng trong việc điều tiết qui trình chuyển hoá xương.  Qui trình này rất phức tạp, nhưng với sự “tham gia” của hai nhóm tế bào tạo xương và huỷ xương.  Khi các tế bào tạo xương hoạt động tích cực hơn các tế bào huỷ xương, chất khoáng trong xương được tạo ra; ngược lại, khi các tế bào hủy xương hoạt động tích cực hơn tế bào tạo xương thì chất khoáng trong xương bị suy giảm.  Nồng độ estrogen trong cơ thể có chức năng ức chế các tế bào huỷ xương bằng cách ngăn chận một enzyme có tên là caspase-3.  Do đó, ở nữ giới, người có nồng độ estrogen cao thường thường là những người có mật độ xương tốt.

Có 3 loại estrogen chính là estradiol, estrone, và estriol.  Nhưng estradiol có ý nghĩa lâm sàng hơn hai loại kia.  Ở nữ, estradiol chủ yếu được sản sinh từ buồng trứng; ở nam, estradiol được chuyển hóa từ testosterone (chú ý rằng testosterone là hormone nam tính). Do đó, nồng độ estrogen có thể đo từ máu, và từ kết quả xét nghiệm có thể biết được một cá nhân thiếu hay đủ estrogen.

Nồng độ estradiol trong máu ở nam và nữ có xu hướng biến chuyển rất khác nhau.  Ở nam,  nồng độ estradiol chỉ dao động trong khoảng 20 pg/mL, và hầu như không suy giảm theo độ tuổi.  Tuy nhiên, ở nữ Việt Nam, nồng độ estradiol trong độ tuổi xuân thì là khoảng 90 pg/mL, nhưng đến tuổi sau mãn kinh (tức sau 50) thì giảm xuống chỉ còn 12 pg/mL, đến tuổi 60 trở lên, chỉ còn 7.5 pg/mL. 

Sự suy giảm estradiol ở nữ giới sau thời kì mãn kinh (hay sau độ tuổi sinh sản) cũng có nghĩa là sự trỗi dậy của các tế bào huỷ xương, và dẫn đến sự suy giảm mật độ xương ở nữ giới.

Ngoài estrogen ra, còn có vài yếu tố khác liên quan đến quá trình sinh sản cũng làm cho xương của phụ nữ suy giảm.  Sự suy giảm xương của người mẹ xảy ra ngay trong thời gian mang thai.  Trong thời gian này, nhất là 3 tháng đầu mang thai, bào thai cần calcium để phát triển bộ xương, và nguồn calcium phải đến từ người mẹ.  Mặc dù trong thời gian mang thai, nồng độ estradiol tăng cao, nhưng mật độ xương của người mẹ vẫn bị suy giảm, một phần là do chuyển calcium từ mẹ sang con.

Trong thời gian bà mẹ cho con bú (sữa mẹ) thì mật độ xương cũng suy giảm.  Một số nghiên cứu trên những bà mẹ ở nước ngoài cho thấy trong thời kì này, mật độ xương của mẹ giảm khoảng 3 đến 9%, đặc biệt là xương cột sống và xương đùi.  Cho con bú sữa mẹ cũng có nghĩa là chia sẻ calcium (một chất khoáng quan trọng trong xương) cho đứa con.  Tuy nhiên, sau đó thì mật độ xương có vẻ “khôi phục” bình thường lại.  Do đó, thường thường (không phải tất cả) những bà mẹ có nhiều con cũng là những người có mật độ xương suy giảm.

Điểm qua những sự thật trên, chúng ta thấy nữ giới có mật độ xương thấp (hay nói theo ngôn ngữ của Phật là trọng lượng xương thấp) hơn nam là do 3 yếu tố chính: suy giảm estradiol trong máu, chuyển calcium cho bào thai trong lúc mang thai, và chuyển calcium cho con sau khi sinh con.  Như vậy, suy luận của Đức Phật về sự mất máu và sinh sản dẫn đến suy giảm trọng lượng xương ở nữ cũng hoàn toàn đúng.

Hệ quả giảm mật độ xương

Suy giảm mật độ xương có ý nghĩa quan trọng đến sức khoẻ của xương.  Mật độ xương càng thấp, nguy cơ bị gãy xương càng cao.  Do đó, mật độ xương đo bằng máy DXA được dùng để chẩn đoán loãng xương.  Mật độ xương ở những người trên 50 tuổi được so sánh với mật độ xương lúc 20-30 tuổi, và thể hiện bằng một chỉ số có tên là “Chỉ số T” (thuật ngữ tiếng Anh là T-score).  Trong thực tế, chỉ số T được tính toán bằng cách lấy mật độ xương của một cá nhân, trừ cho mật độ xương lúc 20-30 tuổi, và chia kết quả cho độ lệch chuẩn.  Khi chỉ số T của một cá nhân (trên 50 tuổi) bằng hoặc thấp hơn -2.5 thì được chẩn đoán là “loãng xương”. 

Dùng tiêu chuẩn chẩn đoán trên, chúng tôi có thể đánh giá qui mô loãng xương ở Việt Nam.  Theo nghiên cứu của chúng tôi ở TPHCM và Hà Nội, ở những người trên 50 tuổi, cứ 10 người nữ thì có khoảng 3 người bị loãng xương; ở nam, cứ 10 người thì có 1 người bị loãng xương.  Dùng số liệu dân số của Việt Nam năm 2010, chúng tôi ước tính rằng hiện nay có khoảng 2 triệu nữ và nửa triệu nam trên 50 tuổi đang trong tình trạng loãng xương. 

Những người loãng xương có nguy cơ bị gãy xương tăng gấp 2-3 lần so với người có mật độ xương bình thường.  Gãy xương, nhất là gãy cổ xương đùi, là một biến cố quan trọng trong một đời người.  Bị gãy xương một lần làm tăng nguy cơ gãy xương lần thứ hai, và nguy cơ tử vong.  Khoảng 15-20% bệnh nhân gãy cổ xương đùi tử vong trong vòng 12 tháng.  Ở nữ, nguy cơ gãy cổ xương đùi tương đương với nguy cơ ung thư vú.  Rất ít người biết rằng nguy cơ tử vong vì gãy cổ xương đùi cũng bằng hoặc cao hơn nguy cơ tử vong vì ung thư vú.  Hiện nay, có một số thuốc có thể sử dụng để điều trị loãng xương, giảm nguy cơ gãy xương, và một vài thuốc còn giảm nguy cơ tử vong vì gãy xương.

Nói tóm lại, loãng xương ở nữ giới cao hơn nam giới, do mật độ xương ở nữ thấp hơn nam.  Loãng xương ở nữ giới là một hệ quả của suy giảm estrogen khi về già, chuyển giao calcium cho người con trong khi mang thai và sau khi sinh con.  Những khía cạnh này đã được Đức Phật đề cập đến hơn 2500 năm trước!  Nhân ngày Lễ Vu Lan, đọc lại những lời Kinh Báo hiếu để thấy sự thông tuệ của Đức Phật, và để nhắc nhở chúng ta về sự mang nặng đẻ đau và hi sinh của những bà mẹ. Nhìn nhận những sự thật này cũng là một cách để chúng ta hiểu rằng chính chúng ta – những người con – mang hình hài của mẹ là một phần của nguyên nhân dẫn đến loãng xương cho mẹ. 

 

Chú thích: Số liệu trong bài này có thể tham khảo từ 2 công trình chính sau đây:

  1. Hồ Phạm Thục Lan và đồng nghiệp, “Reference Ranges for Bone Mineral Density and Prevalence of Osteoporosis in Vietnamese Men and Women” công bố trên tập san BMC Musculoskeletal Disorders 2011.
  2. Nguyễn Thị Thanh Hương, “Peak bone mineral density in Vietnamese women”, công bố trên tập san Archives of Osteoporosis 2009.

Tin và bài liên quan

KẾT NỐI TRONG CHĂM SÓC LOÃNG XƯƠNG Ở CHÂU Á THÁI BÌNH DƯƠNG – HƯỚNG DẪN CỦA TỪNG QUỐC GIA
KẾT NỐI TRONG CHĂM SÓC LOÃNG XƯƠNG Ở CHÂU Á THÁI BÌNH DƯƠNG – HƯỚNG DẪN CỦA TỪNG QUỐC GIA

26/10/2021

APCO Framework (Khung APCO) có thể trợ giúp như thế nào ?

PHÁ VỠ HIỆN TRẠNG QUẢN LÝ LOÃNG XƯƠNG Ở CHÂU Á THÁI BÌNH DƯƠNG
PHÁ VỠ HIỆN TRẠNG QUẢN LÝ LOÃNG XƯƠNG Ở CHÂU Á THÁI BÌNH DƯƠNG

14/10/2021

Mỗi chuyên gia trình bày về bối cảnh loãng xương ở quốc gia của họ, vạch ra các nỗ lực khác nhau đang được tiến hành để giải quyết gánh nặng của bệnh loãng xương và giải thích cách thức triển khai APCO Framework trên toàn khu vực để cải thiện việc sàng lọc, chẩn đoán và quản lý bệnh loãng xương.

GÃY CỔ XƯƠNG ĐÙI- PHÒNG TRÁNH LỖ HỎNG CỦA NGUY CƠ QUẢN LÍ SÓT
GÃY CỔ XƯƠNG ĐÙI- PHÒNG TRÁNH LỖ HỎNG CỦA NGUY CƠ QUẢN LÍ SÓT

13/10/2021

Gãy cổ xương đùi ở người lớn tuổi khá phổ biến, ảnh hưởng tới 18% ở phụ nữ và 6% ở nam giới trong suốt cuộc đời của họ, và liên quan đáng kể đến tử vong và gánh nặng bệnh tật.

Xem thêm