Lộ trình chăm sóc loãng xương ở các nước phát triển – góc nhìn từ Việt Nam
19/01/2021
Là một nền kinh tế đang phát triển với GDP bình quân đầu người khoảng 2.600 USD (số liệu năm 2018), Việt Nam là quốc gia đông dân thứ 15 trên thế giới với dân số 97 triệu người. Dân số của Việt Nam đang gìa đi nhanh chóng. Mặc dù hiện nay, tỷ lệ dân số từ 60 tuổi trở lên của cả nước là 12%, con số này dự kiến sẽ tăng lên 25% vào năm 2049. Theo đánh giá của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Việt Nam là một quốc gia đang già đi trước khi trở nên giàu có.
Là một nền kinh tế đang phát triển với GDP bình quân đầu người khoảng 2.600 USD (số liệu năm 2018), Việt Nam là quốc gia đông dân thứ 15 trên thế giới với dân số 97 triệu người.
Dân số của Việt Nam đang gìa đi nhanh chóng. Mặc dù hiện nay, tỷ lệ dân số từ 60 tuổi trở lên của cả nước là 12%, con số này dự kiến sẽ tăng lên 25% vào năm 2049. Theo đánh giá của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Việt Nam là một quốc gia đang già đi trước khi trở nên giàu có.
Dịch tễ học các bệnh ở Việt Nam đã có sự thay đổi mạnh mẽ trong bốn thập kỷ qua. Trong những năm 1980, nguyên nhân tử vong phổ biến nhất chủ yếu là các bệnh truyền nhiễm, bệnh lý truyền từ mẹ sang con và suy dinh dưỡng trẻ em.Tuy nhiên, từ những năm 1990 đến nay, các bệnh không lây nhiễm (BKLN) chiếm 71% tổng gánh nặng bệnh tật ở Việt Nam, chiếm 60% các trường hợp tử vong do mọi nguyên nhân (Chương trình Phòng chống và Kiểm soát các bệnh không lây nhiễm của Harper C. Việt Nam 2002 -2010. Báo cáo của WHO 2011).
Trong số các bệnh lý mạn tính, loãng xương được coi là một vấn đề sức khỏe lớn ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc thiếu cơ sở hạ tầng và nguồn lực khiến cho việc chẩn đoán loãng xương ở Việt Nam trở thành một thách thức, đặc biệt là ở các vùng nông thôn. Hầu hết bệnh nhân loãng xương vẫn không được chẩn đoán và điều trị. Vì thế vấn đề không thể tiếp cận đến phương tiện DXA vẫn là một vấn đề nghiêm trọng ở Việt Nam. Hiện tại Việt Nam có 71 máy đo mật độ Hologic và 20 GE Lunar trên toàn quốc, nhưng hầu hết là ở các bệnh viện lớn. Những năm gần đây, ngày càng nhiều bệnh viện tuyến tỉnh lắp đặt máy DXA để đánh giá loãng xương. Tuy nhiên, việc thiếu giá trị tham chiếu và tiêu chuẩn hóa giữa các dụng cụ có thể dẫn đến chẩn đoán sai trong nhiều trường hợp.
Ước tính của chúng tôi từ dữ liệu thu được từ Nghiên cứu loãng xương Việt Nam là khoảng 19% phụ nữ Việt Nam và 8% nam giới Việt Nam từ 50 tuổi trở lên bị loãng xương dựa theo chỉ số T-score cổ xương đùi. Tuy nhiên, nếu kết hợp BMD từ cổ xương đùi và cột sống thắt lưng, tỷ lệ loãng xương tăng lên 28% ở phụ nữ và 16% ở nam giới. Tỉ lệ này tương đương với dân số người da trắng.
Chúng tôi đã xây dựng mô hình kiểu OSTA để đánh giá nguy cơ loãng xương cho dân số Việt Nam [7]. Mô hình của chúng tôi đơn giản dựa trên độ tuổi và cân nặng như sau: đối với phụ nữ, P = exp (và đối với nam giới. Chúng tôi nhận thấy rằng phụ nữ có P> 0,19 và nam giới có P> 0,10 có thể được coi là 'nguy cơ cao' và được chỉ định chụp DXA .
Dữ liệu về tỷ lệ gãy xương ở Việt Nam không có sẵn. Tuy nhiên, dựa trên ảnh chụp X quang của 209 phụ nữ sau mãn kinh và sử dụng phương pháp bán định lượng của Genant, chúng tôi nhận thấy khoảng 23% phụ nữ bị gãy đốt sống không được chẩn đoán. Nếu áp dụng tỷ lệ gãy cổ xương đùi ở Thái Lan vào Việt Nam, chúng tôi ước tính ở Việt Nam số ca gãy cổ xương đùi là 9.000 ca ở nam và 24.000 ca ở nữ vào năm 2020.
Phần lớn bệnh nhân được chẩn đoán loãng xương được điều trị bằng alendronate và zoledronic acid. Nhưng hầu hết các bệnh nhân bị gãy xương, thậm chí gãy xương cổ xương đùi lại không được điều trị. Tuy nhiên, điều này đang dần thay đổi khi các bác sĩ ngày càng nhận ra tác động của gãy xương do loãng xương đối với tỷ lệ tử vong.
Đo mật độ xương để đánh giá và chẩn đoán Loãng xương.
Tóm lại, tỷ lệ loãng xương và gãy xương do loãng xương ở Việt Nam không khác nhiều so với người da trắng. Thiếu giá trị tham chiếu cho mật độ khoáng xương (BMD) và điều trị kém ở bệnh nhân bị gãy xương hiện đang đang là những vấn đề lớn ở Việt Nam.
Do đó, nhu cầu quan trọng trong tăng cường chăm sóc loãng xương vẫn tồn tại. Các tiêu chuẩn chăm sóc của khu vực và quốc tế, chẳng hạn như các tiêu chuẩn do APCO phát triển, có thể được điều chỉnh cho phù hợp với bối cảnh Việt Nam, và cũng có thể được sử dụng làm thang điểm ở địa phương. Với một nỗ lực phối hợp cùng nhau, căn bệnh thầm lặng này có thể được kiểm soát ở Việt Nam.
Bác sĩ Hồ Phạm Thục Lan, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.